Quá trình đổ bê tông muốn đạt được độ đặc chắc tốt nhất thì cần phải đầm thật chặt, quá trình này đòi hỏi phải đúng kỹ thuật và đảm bảo đúng thời gian. Trong bài viết hôm nay công ty cổ phần đầu tư thương mại xây dựng việt đức xin chia sẻ một vài kinh nghiệm đầm bê tông để giúp quá trình thi công sàn, mái đạt chất lượng tốt nhất.
Đầm bê tông là gì?
Như chúng ta đã biết, chất lượng bê tông quyết định chất lượng công trình. Vữa bê tông khi được hình thành vẫn còn độ rỗng lớn trong vật liệu. Ngay cả khi bạn đã đổ bê tông vào khuôn. Chính những lỗ rỗng này làm cho bê tông sau khi khô sẽ bị xốp, không rắn chắc và khả năng chịu lực kém.
Công tác đầm bê tông đối với kết cấu bê tông cốt thép lại càng quan trọng. Trước khi đổ bê tông phải có sẵn khung cốt thép bên trong. Đôi khi chính những khung này ngăn không cho bê tông trải đều trong khung. Bê tông cần một lực đẩy bên ngoài để đảm bảo nó đi tới mọi ngóc ngách trong khung.
Mục đích chính của đầm bê tông là để giảm thiểu độ rỗng của bê tông. Để làm được điều này, chúng ta cần sử dụng lực đẩy từ bên ngoài, hoặc bên trong bê tông. Chúng tôi cũng có thể sử dụng đầm thủ công hoặc máy. Các phương pháp đầm bê tông được sử dụng nhiều nhất hiện nay sẽ được chúng tôi giới thiệu trong phần tiếp theo của bài viết.
Các phương pháp đầm bê tông thông dụng nhất hiện nay
Hiện nay, có 3 phương pháp được sử dụng phổ biến nhất đó là: đầm trong kết cấu bê tông, đầm ngoài kết cấu bê tông và đầm bê tông theo phương ngang.
Đập trong lòng kết cấu bê tông
Đầm bên trong kết cấu bê tông hay còn gọi là đầm sâu. Việc đầm bên trong cũng cần sử dụng đến sự hỗ trợ của máy móc. Thiết bị được sử dụng phổ biến nhất là máy đầm búa. Nguyên lý hoạt động của nó là đưa nguồn rung động vào bên trong kết cấu bê tông. Hệ thống nguồn này sẽ hỗ trợ quá trình đông kết bê tông đã được đầm chặt.
Nếu không dùng máy móc, chúng ta cũng có thể đầm thủ công. Tuy nhiên công đoạn này sẽ rất khó khăn cho người thợ, nhất là với công trình lớn. Với phương pháp này, người thợ phải dùng các thiết bị có sẵn để chọc, nện cho đến khi bê tông chặt lại.
Phương pháp này thường được áp dụng cho hệ thống bê tông có chiều sâu và chiều dài lớn. Như cột, tường, móng, đê, đập, v.v.
Kết cấu bê tông đầm ngoài
Đầm ngoài cũng được sử dụng khá nhiều tại các công trường. Các khối bê tông như sàn, nền, đường… thì phương pháp này sẽ được thực hiện. Đặc điểm chung của chúng là có độ dày nhỏ nhưng diện tích bề mặt lớn. Máy dùng để hỗ trợ là máy đầm bàn.
Máy đầm bàn sẽ đi trên bề mặt của khối bê tông. Thiết bị này được thiết kế với chức năng chính là mặt phẳng và rung. Các rung động từ trên cao sẽ tác động để lớp bê tông được đầm chặt và không còn bị rỗng ở giữa. Khi bê tông khô sẽ thu được lớp bê tông cứng chắc nhất. Đầm bàn hay còn gọi là đầm đĩa.
Tuy nhiên trong một số trường hợp hệ thống bê tông đầm lăn cũng khá dày. Ví dụ như đập thủy điện, đê điều… Khi đó, người ta cần dùng kỹ thuật đầm nén đặc biệt. Sử dụng máy ủi, máy lu,… và sử dụng các loại bê tông chuyên dụng. Đối với các công trình xây dựng thông thường, điều này là không cần thiết.
đầm cạnh bê tông
Nguyên lý hoạt động của phương pháp này là tạo ra các rung động tại các khuôn đúc bê tông. Những rung động này sau đó được chuyển đến bê tông. Các rung động sẽ khiến các hạt vật chất lắng đọng và kết dính với nhau theo nguyên lý trọng lực. Độ rung càng đều và mạnh thì hiệu quả càng cao.
Phương pháp này thường dùng cho kết cấu bê tông tường đứng có chiều dày nhất định. Chẳng hạn như kết cấu tường. Đối với các kết cấu lớn ta có thể rung từng bộ phận để bê tông chắc hơn. Nếu sử dụng máy đầm, bạn có thể treo máy rung thành từng đoạn nhỏ. Nếu kết cấu bê tông nhỏ, bạn có thể sử dụng phương pháp thủ công để tiết kiệm thời gian và tiền bạc.
Trong một số trường hợp cũng cần sử dụng phương pháp này, đó là sản xuất các kiện bê tông đúc sẵn. Chẳng hạn như các đường ống thoát nước của nhà máy. Đối với các đối tượng này, phương pháp nén toàn bộ cạnh được sử dụng. Điều đó có nghĩa là đặt toàn bộ hệ thống đúc trên bàn rung.
Vì sao phải đầm bê tông
Khi đổ vào khuôn thường có khuynh hướng phân rã , các cốt liệu nặng chìm xuống dưới, các cốt liệu nhẹ nổi lên trên bề mặt . Do đó người ta phải tiến hành đầm với mục đích làm khối hỗn hợp được đồng nhất , đồng thời vữa bê tông bám chặt vào cốt thép. Các cốt liệu thô lọt vào khe giữa cốt thép , cốt liệu thô lọt vào khe giữa cốt thép , cốt liệu, mịm dàn đều , bao phủ hết các khe hở, tạo nên một khối bêtông đặc chắc , theo hình khuôn đúc.
Bê tông được đầm kỹ còn làm giảm thời gian đông cứng nên nhanh được tháo dỡ cốp pha hơn . Bêtông cũng ít khe nứt, co ngót , do đó tăng cường độ chống thấm . Có hai phương pháp thường được sử dụng là đầm thủ công và đầm máy .
Hướng dẫn đầm bê tông
Đầm là giai đoạn quan trọng nhất quyết định lớn đến chất lượng kết cấu hỗn hợp sau khi đổ. Đây công là công việc được thực hiện sau khi đã trộn hỗn hợp và đổ nhằm làm cho hỗn hợp vữa bê tông tươi trở nên đặc chắc , bên trong không tồn tại các lỗ rỗng, mặt ngoài không bị rỗ và làm chúng bám chặt vào cốt thép.
Yêu cầu của việc đầm bê tông là phải đầm kỹ , không bỏ sót và đảm bảo thời gian đầm. Nếu chưa đầm đủ thời gian thì bêtông không được lèn chặt, bị rỗng bên trong hoặc rỗ bên ngoài. Còn nếu đầm quá lâu sẽ khiến bêtông bị nhão ra, đá sỏi to sẽ lắng xuống, vữa xi măng nổi lên trên, bêtông sẽ không được đồng nhất.
Hiện nay có hai cách để đầm đó là dùng đầm thủ công và đầm máy. Mỗi một cách đầm có một ưu nhược điểm riêng.
Đầm thủ công
Công nhân dùng đầm gang kết hợp với que xọc bằng thép hoặc xà beng, vô gồ …Đầm ngang nặng khoảng 8-10 kg, dùng sức người nâng lên và hạ xuống đều đặn trên bề mặt bê tông. Khi sử dụng, phải kết hợp dùng thêm xà beng hay que xọc thép Φ14 , chọc sâu vào vữa để cốt liệu lọt qua khe cốt thép . Vồ gỗ hay xẻng được kết hợp thúc mạnh vào thành cốp pha để vữa chảy ra, lấp đầy các lỗ rỗng . Các biện pháp này phải được sử dụng đồng thời chứ không thể thay thế cho nhau . Đầm cho đến khi vữa không lũ xuống và trên mặt xuất hiện sữa xi măng ( nước xi măng sền sệt , đặc sánh là được . Tuy nhiên phương pháp thủ công này nên hạn chế sử dụng vì tốn thời gian mà hiệu quả kém . Dùng đầm cơ giới hiệu quả hơn . Ngoài tính ưu việt về tốc độ, còn ưu điểm là có thể dùng vữa bê tông khô hơn nên tiết kiệm được khoảng 15% xi măng .
Đầm bằng máy
Dựa theo nguyên lý chấn động trong, chúng ta dùng đầm rung khi thi công móng, cột có chiều dày thông thường từ 20-30cm. Đầu đầm dùi phải ăn xuống lớp bê tông phía dưới 5 đến 10cm mới phát huy tác dụng . thời gian đầm tại mỗi vị trí trong vòng 20 đến 40 giây . Nếu thấy nhiều gợn nước quay vòng đồng tâm quanh đầm dùi hoắc có nước đọng thành vũng dưới đầm bàn là vữa đã bị phân tầng do đầm quá lâu tại một vị trí . Mỗi lần chỉ di chuyển đầm dùi một khoảng cách không quá 1,5 lần bán kính tác dụng của đầm . luôn luôn cho đầm rung theo phương thẳng đứng để lực rung tác động vào lớp bê tông baeen dưới chưa đông cứng . Tuyệt đối không ấn đầm rung lung tung theo nhiều chiề hướng khác nhau và không đủ chiều sâu
Đầm bàn sử dụng nguyên lý chấn động mặt để đầm lớp trên cùng các tấm bản sàn .Sức rung của đầm bàn làm vữa bê tông giống như chất lỏng, chảy vào tất cả các khe kẽ. Các hạt cốt liệu có khuynh hướng dồn sát lại gần nhau, không khí bị đẩy ra ngoài . Sẽ xuất hiện nước xi măng chảy xuống qua khe cốp pha và một lượng nước trong nổi lên trên bề mặt bêtông, bọt khí nhỏ ti ti nổi lên . Đây đều là hiện tượng chấp nhận được . thời gian đầm một chỗ đối với đầm bàn từ 30 đến 50 giây. Hướng đi của dầm theo chiều quay động cơ .Khi di chuyển đầm phải đảm bảo phủ lên vết đầm trước từ 10-20cm . Nối chung có thể kéo đầm làm hai lần thẳng góc với nhau . Không được đứng lên máy hoặc chất thêm tải trọng như gạch đá lên mặt đầm . Đầm trên mặt sàn phải dùng cữa khống chế độ cao .
Đầm chày thường được dùng để đầm nhiều lớp . Khi đầm lớp trên, cần cho đầu cắm ngập vào lớp dưới đã đầm khoảng 5 cm, để cho các lớp bê tông liên kết với nhau tốt . Vị trí và khoảng cách đặt chày phụ thuộc vào các loại đầm khác nhau. Nếu bán kính ảnh hưởng cảu đầml ớn thì khoảng cách này bằng 1,5 lần bán kính ảnh hưởng của máy đầm . Chỉ được tắt máy khi đã rút cày ra khỏi bề mặt . Nếu tắt máy khi chày còn đang ở trong bề mặt hỗn hợp có thể không rút chày ra được, hoặc rút được sẽ để lại lỗ hổng trong mặt bê tông thương phẩm . Khi cám chày vào mặt chúng cần cho chày xuống nhanh, nhưng ngược lại , khi rút lên phải kéo chậm và dẫm chân vào cạnh chày . Mục đích của thao tác đó là lèn chặt vữa bê tông xuống , khi chày rút lên sẽ không tạo lỗ hổng trong hỗn hợp. Thời gian dầm tại một vị trí phụ thuộc vào tần số của máy , nếu tần số cao thì đầm nhanh, tần số thấp phải đầm lâu hơn . Nếu tần số của máy là 4000 vòng/phút thì thời gian khoảng 1,5 phút là thích hợp, tần số 7000 vòng / phút chỉ cần khoảng 30 giây . Không dùng đầm chày thúc vào cốp pha và cốt thép , có thể gây vỡ hoặc thủng cốp pha, làm sai lệch vị trí của thép, hoặc làm cho thép truyền rung động đến chỗ bê tông đã bắt đầu cứng .
Đầm máy không thể vào hết các cạnh góc hoặc những chỗ cốt thép dày , do đó phải kết hợp với việc sử dụng đầm tay . Thời gian đầm ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng bê tông thương phẩm .Nếu đầm quá lâu, chúng sẽ nhão và có hiện tượng phân tầng .
Đầm bê tông sẽ giúp cho công trình có một khung xương vững chắc, hạn chế tối đa các khuyết tật trên bề mặt giúp tăng tuổi thọ của công trình xây dựng.